Dáng xưa
DÁNG XƯA
Đoàn du lịch chúng tôi đến Huế vào buổi hoàng hôn , ngay trước tầm mắt là các khu đồi, là rừng thông bát ngát tiếp đến một vùng đồng bằng rộng lớn cỏ cây xanh rờn …, xa hơn nữa là dãy Trường Sơn trùng điệp một màu tím thẫm ẩn hiện sau những tầng mây bạc. Nhìn về phía Đông, dải cát trắng mờ phía xa cửa Thuận An với màu xanh thăm thẳm của biển Đông …; Cùng với sông Hương như một dải lụa mềm uốn quanh chân đồi, núi Ngự Bình xinh đẹp quyện vào nhau tạo nên vẻ sơn thủy hữu tình của Huế. Người ta quen gọi Huế là xứ sở của sông Hương – núi Ngự.
Thành phố Huế là cố đô ở miền trung, là một địa danh có nhiều di sản văn hóa của Việt Nam, những di tích này vẫn giữ được dáng vẻ của thành phố thời Trung cổ và còn nguyên vẹn kiến trúc của một nền quân chủ. Ở bờ phía Bắc sông Hương là Hoàng Thành, một công trình kiến trúc hoành tráng đã thực sự phản ảnh được cuộc sống của triều đại nhà Nguyễn. Giữa những quả đồi ở bờ Nam sông Hương là những lăng tẩm rất đẹp của các vua Nguyễn. Huế và những vùng lân cận có nhiều đền và chùa xây dựng cách nay hằng trăm năm. Huế xứng đáng là di tích văn hóa thế giới.
Huế từ xa xưa đã được Chúa Nguyễn chọn làm thủ phủ của xứ “Đàn Trong” và chính thức trở thành kinh đô dưới triều Tây Sơn. Kinh thành Huế do vua Gia Long xây dựng từ năm 1805 và sau nầy được vua Minh Mạng tiếp tục hoàn thành vào năm 1832. Tại đó các vua triều Nguyễn đã cho xây dựng khá nhiều thành quách, cung điện và các công trình của hoàng gia. Hoàng thành (Đại nội) nằm ở khoảng giữa kinh thành là nơi đặt các cơ quan cai trị cao nhất của chế độ quân chủ và là nơi thờ tự các vua chúa đã quá cố. Hoàng thành thiết trí hình vuông , mỗi bề dài 600 mét, xây bằng gạch, cao 4 mét, dày 1 mét xung quanh có hào bảo vệ. Hoàng thành có 4 cửa để ra vào, riêng Ngọ Môn chỉ dành cho vua đi.
Ngọ Môn không phải chỉ là một cái cổng, mà đó là cả một tổng thể khá phức tạp, kiến trúc được áp dụng theo nguyên tắc Dịch học Đông phương chẳng hạn như “ngũ hành”, “cửu ngũ”, “hà đồ” ,“lạc thư” . Ở bên trên còn có lầu Ngũ Phụng được xem như một lễ đài, dùng để tổ chức một số lễ hàng năm của Triều đình. Đạo âm dương, ngũ hành của nền triết học Đông Phương đã biểu hiện thật cụ thể trên kiến trúc Ngọ Môn. Tổng thể Ngọ Môn tuy đồ sộ nguy nga, nhìn từ xa như một tòa lâu đài tráng lệ, nhưng khi tiếp cận, chúng ta thấy các kiến trúc sư thời Minh Mạng đã tỏ ra rất cao tay nghề trong việc thiết kế và trang trí để công trình kiến trúc xinh xắn, gần gũi với phong cảnh thiên nhiên và tâm hồn, tình cảm của con người xứ Huế.
Ở phía Tây Nam Hoàng Thành là Hiển Lâm Các, trước sân Thế Miếu, là chín cái đỉnh đồng lớn nhất Việt Nam, gọi chung là Cửu Đỉnh (Urnes Dynastiques). Năm 1936 Vua Minh Mạng đúc Cửu đỉnh với mục đích tượng trưng đế quyền của dòng họ Nguyễn. Trên chín cái đỉnh ấy có những đặc điểm như sau:
- Mỗi đỉnh có một tên riêng ứng với miếu hiệu của một vị hoàng đế đã thờ trong Thế Miếu, ví dụ Cao Đỉnh dành cho vua Thế Tổ Cao Hoàng Đế ( tức vua Gia Long), Nhân Đỉnh dành cho Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế (tức vua Minh Mạng), Chương Đỉnh, Anh Đỉnh, Nghị Đỉnh, Thuần Đỉnh, Tuyên Đỉnh dành cho các vua kế tiếp là Thiệu Trị, Tự Đức, Kiến Phước, Đồng Khánh, Khải Định. (cho đến năm 1958 trong Thế Miếu chỉ có 7 án thờ nên mới dùng 7 đỉnh, (còn hai đỉnh Dụ và Huyền chưa dùng đến).
- Mới nhìn 9 đỉnh hình như giống nhau, nhưng trong thực tế chúng đều khác nhau: khác nhau về trong lượng, khác nhau về bộ chân, cũng như bộ quai ở trên. Nhưng cái khác nhau đặc biệt nhất là 17 hình chạm chung quanh mỗi đỉnh, gồm những gì tiêu biểu của đất nước từ Lạng Sơn xuống tận mũi Cà mau và được qui lại trong các chủ đề: tinh tú, sông núi, biển cả, thuyền bè, xe cộ, các sản vật quí giá trên rừng, dưới biển của nước Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Cửu đỉnh là một di sản văn hóa truyền thống còn lại hầu như nguyên vẹn, hiếm có ở mảnh đất khí hậu khắc nghiệt và chiến tranh liên miên nầy.
Thời tiết tháng chạp ở Huế mưa vẫn kéo dài, chụp ảnh trong thành nội Huế chúng tôi phải luôn luôn chấp nhận trong tình huống thiếu ánh sáng, máy ảnh bắt buộc phải có tripod vì ngoại cảnh không đủ sáng, khẩu độ của máy cần mở rộng. Vì đi chung cả đoàn du lịch, chúng tôi không thể lựa chọn để có được môt lịch trình với thời tiết thích hợp cho việc bấm máy của mình. Cảnh vật các đền đài, lăng tẩm, tất cả đều rêu phong, bao phủ một màu xám đen, ấy là chưa kể đường đi trơn trợt, chúng tôi phải cẩn thận di chuyển từng bước, nếu không sẽ dễ dàng trợt ngã, nếu điều xui xẻo đó xảy ra thì cái máy ảnh và toàn bộ đồ nghề trang bị sẽ không sử dụng được nữa. Tôi dùng chiếc máy Nikon D200 đã “lạc hậu”, kèm theo cái ống kính Nikkor dã chiến 70-200mm, F 2.8D VR, tấm ảnh “DÁNG XƯA” ghi lại ở Huế hôm đó, tôi lấy cận điểm từ Cửu đỉnh thứ nhứt và yêu cầu là làm sao đạt được mức độ rõ nét người thiếu nữ rất là Huế trong chiếc áo dài màu tím, thướt tha trong nón lá bài thơ, nàng đang quay lưng tiến xa về phía chân trời, khẩu độ F tôi mở rộng từ 6.3 đến 5.6, và vận tốc ánh sáng ở vào khoảng 1/30 đến 1/60 second, với ISO 200.
Sau cơn mưa, buổi chiều hôm ấy trời vẫn còn lất phất những giọt nước rơi nhẹ trên vai áo tím người thiếu nữ, vài sợi mây xám trên bầu trời xám đục …. có thể không gian của ảnh lúc bấy giờ rất âm u, nhưng cái “hồn” trong ảnh, cái bóng dáng tịch liêu của hoàng thành, cái rêu phong của Cố đô…đã diễn tả được nội tâm của tôi trong một buổi chiều một mình ngồi trên thềm đá bên bờ sông An Cựu, lặng nhìn dòng sông vắng vẻ êm đềm, lững lờ trôi, bên kia bờ sông không một bóng người, chỉ có hàng cây lặng lẽ, im lìm. Như dòng sông kia, nước vẫn trôi, như đời mình, tất cả đã đổi thay, đã đi qua và không có gì trở lại được …
Phạm Đức Thạnh / HERALD /AĐ-090716











